TIN VUI

Tuần san Công Giáo Tin vui - Số 101 CN 02.09.2007

 

Web site ww.tinvui.org  E-mail : bantreconggiao@yahoo.com

 

MỤC LỤC

 

 Chúa Nhật XXI Thường Niên C..

LẠY CHÚA CON CÓ LÀ GÌ !

TÔI ĐỌC SÁCH ĐỨC GIÁO HOÀNG..

Chương trình chuyến công du mục vụ của ĐGH Bênêđictô XVI đến Trung Tâm Thánh Mẫu Loreto.

Tháng 11 sẽ có thêm 15 tân Hồng Y?.

Địa điểm tổ chức Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới tại Úc gặp rắc rối.

Mẹ Têrêxa, Calcutta : Vị Thánh của đêm tăm tối đức tin.

Khám bệnh và phát thuốc miễn phí cho gần 800 bệnh nhân tại Bắc Thần giáo phận Xuân Lộc. P

Các Bà Mẹ Công Giáo Giáo Phận Nha Trang mừng lễ Bổn Mạng Thánh Nữ Mônica.

Mừng lễ thánh nữ Monica bổn mạng các bà mẹ giáo xứ Tuy Hòa.

LỄ LÀM PHÉP CHUÔNG MỚI NHÀ THỜ ĐÁ VĨNH HOÀ (SÀI GÒN)

Bài gợi ý suy tư nhân ngày HIỀN MẪU MONICA 27.08.

VAI TRÒ NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG CÔNG CUỘC LOAN BÁO TIN MỪNG..

AI HẠ MÌNH XUỐNG SẼ ĐƯỢC NHẮC LÊN..

KHẢ NĂNG NÓI KHÔNG..

“Hãy sinh xôi đầy mặt đất!”.

DÂNG HIẾN CUỘC ĐỜI CỨU SỐNG CÁC TRẺ EM BỊ UNG THƯ ÓC..

Giúp bé tăng khả năng diễn đạt ngôn ngữ..

Tương quan giữa cha sở với các nữ tu, ban hành giáo và các đoàn thể trong giáo xứ (tiếp theo)

 

 

 

SỐNG LỜI CHÚA

 

 

Chúa Nhật XXI Thường Niên C

 

Tin Mừng : Lc 14, 1.7-14

 

"Hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên."


Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Luca.


Khi ấy, nhằm một ngày Sabat, Chúa Giêsu vào nhà một thủ lãnh các người biệt phái để dùng bữa, và họ dò xét Người. Người nhận thấy cách những kẻ được mời, chọn chỗ nhất, nên nói với họ dụ ngôn này rằng: Khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: Xin ông nhường chỗ cho người này. Bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết. Nhưng khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết, để khi người mời ngươi đến, nói với ngươi rằng: Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên. Bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc. Vĩ hễ ai nhắc mình lên, sẽ phải hạ xuống, và ai hạ mình xuống, sẽ được nhắc lên. Rồi Người lại nói với kẽ đã mời Người rằng: Khi ông dọn bữa ăn trưa hay tối, thì đừng mời bạn bè, anh em, bà con hay láng giềng giàu có, kẻo đến lượt họ cũng mời ông, và như thế ông đã được trả lễ rồi. Nhưng khi làm việc, hãy mời những người nghèo khó tàn tật, què quặt và đui mù; ông sẽ có phúc, bởi họ không có gì trả lễ. Vì ông sẽ được trả lễ khi những người công chính sống lại.

 

Đó là lời Chúa.

LẠY CHÚA CON CÓ LÀ GÌ !

Sống trong một thế giới văn minh vượt bực, ai cũng chỉ muốn cho mình có của ăn, của để dư thừa. Ai cũng muốn cho mình có địa vị giầu sang, chức quyền cao trọng. Ai cũng muốn cho mình được người khác nể trọng và khen ngợi. Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay cho chúng ta cái nhìn hết sức trái ngược với ý nghĩ của con người. Con người thích thái độ tự kiêu, tự mãn, Chúa lại dậy con người phải khiêm nhượng.

AI TÔN MÌNH LÊN SẼ BỊ HẠ XUỐNG VÀ AI HẠ MÌNH XUỐNG SẼ ĐƯỢC TÔN LÊN :

Đức Giêsu là người khiêm nhượng tuyệt đối. Người yêu thích sự khiêm nhượng và làm gương cho mọi người về sự khiêm nhu, tự hạ. Người là Thiên Chúa nhưng đã tự hạ :” Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế…”( Pl 2,6-7 ). Chúa là Đấng cao vời, cao quí, là Cha và là Thầy, nhưng Người đã cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Sự tự hạ của Người vô cùng tuyệt vời, vô cùng quí giá vì :” Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập giá “ ( Pl 2, 8 ). Chúa làm gương và Chúa dậy con người qua dụ ngôn trong Tin Mừng Lc 14, 7-14. Chúa cho thấy khi dự tiệc có nhiều người cứ hăm hở, háo hức chọn chỗ nhất, chỗ cao ở bàn tiệc. Còn Chúa chớp lấy cơ hội này, Người khuyên con người hãy khiêm nhượng, chọn phần chót hết, nghĩa là chọn địa vị sau chót :” Khi được mời dự tiệc cưới, đừng chọn chỗ nhất, sợ có nhân vật nào có địa vị, quan trọng cũng được mời…ngược lại khi được mời hãy ngồi vào chỗ cuối. Xem ra chọn chỗ cuối trong bữa tiệc phải được thực hiện cách tự nhiên, đơn sơ, không hề có hậu ý gì, nếu không sẽ trở nên giả hình, kiêu ngạo một cách tinh tế vì xếp chỗ ngồi là quyền của chủ nhà chứ không thuộc quyền của khách. Hạ mình xuống là khiêm nhượng, mà khiêm nhượng thực sự là biết mình, biết về ưu điểm cũng như khuyết điểm của mình. Khiêm nhượng như Chúa dậy là coi mình là không và coi Chúa là tất cả. Chỉ khiêm nhượng như thế mới đáng được Chúa tôn lên. Gương Đức Mẹ trong Tin Mừng và gương của thánh Giuse. Mẹ coi mình là nữ tì của Chúa và là người phục vụ trong yêu thương. Thánh Giuse tự hạ nhận Mẹ về nhà mình và dưỡng nuôi Chúa Giêsu.

LỜI KHUYẾN CÁO CỦA CHÚA TIỀM ẨN MỘT Ý NGHĨA SÂU XA :

Tiệc cưới đối với Chúa Giêsu là Nước Trời và trong đó kẻ nào tự hạ mình xuống sẽ được nhắc lên và kẻ nào tự tôn, tự kiêu, tự đại sẽ bị hạ xuống. Chúa Giêsu muốn đưa nhân lọai, đưa con người đi vào chiều sâu của đời sống. Cuộc đời con người không chỉ ở trần gian, với của cải vật chất, với danh dự, chức vị cao quí, nhưng con người còn có một cuộc đời mai sau. Do đó, Chúa đưa con người đi vào chiều sâu của sự khiêm hạ mà vươn tiến lên chiều cao của Nước Thiên Chúa. Nước Trời là một hồng ân cao quí mà chỉ có những ai khiêm nhượng, chỉ những ai hiểu biết và nhận ra Chúa là tất cả thì họ mới có thể lãnh nhận được Nước Thiên Chúa. Còn những kẻ tự kiêu tự đại, tự tôn, tự mãn tưởng mình có thể vào Nước Trời cách dễ dàng mà không phải cố gắng hy sinh, vác thập giá mà theo Chúa thì quả thực Nước Thiên Chúa vượt ra khỏi tầm tay của họ. Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo và nâng cao kẻ phận nhỏ, kẻ khiêm nhượng. Ađam và Eva vì tự mãn muốn bằng Thiên Chúa, nên ông bà đã hoàn toàn bị hạ xuống. Mẹ Maria vì khiêm nhượng, Chúa nâng Mẹ lên :” Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới; từ nay, hết mọi đời sẽ khen tôi diễm phúc. Đấng toàn năng đã làm cho tôi biết bao điều cao cả “ ( Lc 1, 48-49 )

Lạy Chúa Giêsu, Chúa yêu thương kẻ khiêm nhường và chống lại kẻ kiêu căng, tự kiêu, tự mãn. Xin củng cố lòng tin cho chúng con để chúng con nhận ra giới hạn con người của mình và tín thác vào Chúa vì Chúa là tất cả cho con người chúng con. Amen.

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT

Mục lục

 

CON ĐƯỜNG TU ĐỨC

 

TÔI ĐỌC SÁCH ĐỨC GIÁO HOÀNG

 

Tôi vừa được hân hạnh đọc qua cuốn sách “Chúa Giêsu thành Nadaret” . Tác giả cuốn sách là Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI. Sách khổ lớn, dày hơn 400 trang. Một phần lớn sách này được viết trước khi tác giả lên ngôi Giáo hoàng. Tôi đọc bản dịch bằng tiếng Pháp.

 

Đọc sách này, tôi phải rất tập trung, vất vả khơi lại trí nhớ, luôn vận động hứng thú đi tìm, và không ngừng nắm vững đường dây suy tư của tác giả.

 

Thực tình, tôi chưa tiếp thu được hết kho tàng trí thức này, vì đây là một kho tàng chất chứa nhiều quan niệm quý có liên hệ đến nhiều lãnh vực khác nhau.

 

Nếu cần nói một vài lời cảm tưởng đơn sơ về dòng suy tư của Đức Bênêđíctô XVI trong sách này, thì tôi xin mạo muội diễn tả như sau :

 

  1. Một suy tư mang chiều sâu rất khác thường.

 

Cuốn sách này nói về Chúa Giêsu hơn là nói với Chúa Giêsu. Nghĩa là nói về Chúa Giêsu trong lịch sử và trong đức tin. Để “nói về Chúa Giêsu”, cuốn sách đã đào bới các tài liệu sâu xa từ Cựu Ước, đến Tân Ước, các nguồn thần học xa xưa, các chứng từ trong lịch sử các tôn giáo, các dấu vết trong phụng vụ và nghệ thuật thánh. Môn Giáo phụ được Ngài nghiên cứu đặc biệt.

 

Tài liệu nào cũng được trích dẫn rõ ràng minh bạch, kèm theo những lượng giá chặt chẽ.

 

Khi đi sâu vào các lãnh vực nghiên cứu, người đọc có thể bị choáng váng trước sự hiểu biết sâu sắc tinh vi của tác giả cuốn sách. Ngài ví như người chịu khó đi tìm sâu các luồng nước ngầm dẫn tới điểm hẹn là Đức Kitô.

 

  1. Một suy tư mang chiều rộng đáng mến phục.

 

Cuốn sách đề cập đến nhiều vấn đề có liên hệ đến cuộc đời Chúa Giêsu, như :

 

-                                 Sự Chúa Giêsu chịu phép rửa.

-                                 Sự Chúa Giêsu bị cám dỗ trong sa mạc.

-                                 Bài giảng của Chúa Giêsu trên núi.

-                                 Sự Chúa Giêsu cầu nguyện.

-                                 Sứ điệp của các dụ ngôn.

-                                 Những hình ảnh lớn mà Chúa Giêsu đã dùng.

-                                 Những gì Chúa Giêsu đã khẳng định về chính mình.

-                                 Những môn đệ của Chúa Giêsu.

 

Mỗi vấn đề nêu lên đều được bàn rộng với các ý kiến khác nhau của nhiều tác phẩm đương thời và của các thế kỷ trước. Điều đó đòi hỏi phải đọc nhiều.

 

Tôi thấy tác giả cuốn sách đã có một tầm hiểu biết rất rộng, qua việc Ngài phân tích nhiều tác phẩm nổi tiếng thuộc nhiều ngôn ngữ. Ngài ví như con ong biết bay xa, rút mật thừ các từ hoa quý của nhiều rừng văn học tôn giáo.

 

  1. Một suy tư mang chiều kích căn bản.

 

Vì nói về Chúa Giêsu, nên sách này dựa trên căn bản cốt yếu là Kinh Thánh.

 

Thử đếm những chỗ trích dẫn Cựu Ước, người ta có thể ước chừng hơn 150.

 

Thử đếm những chỗ trích dẫn Tân Ước, người ta thấy số lượng trên 600.

 

Khi đọc cuốn sách có căn bản là Kinh Thánh, người ta dễ cảm thấy một môi trường linh thiêng lắng dịu.

 

Hơn nữa, khi cuốn sách có những suy tư dựa dựa trên Kinh Thánh, lại khéo đưa người ta đến nhận định bản tính của các nhân vật và các vấn đề, thì người đọc sẽ dễ được an lòng. Thí dụ : Chúa Giêsu là ai, các môn đệ là ai, hạnh phúc thực là gì, cái “ là” ở đây rất quan trọng. Điều quan trọng đó được suy tư trên Kinh Thánh để trả lời. Các trường hợp như vậy, người đọc cảm thấy sung sướng vô vàn.

 

  1. Một suy tư mang sự sống thiêng liêng tìm gặp Chúa.

 

Cuốn sách này tuy chủ yếu là “nói về Chúa” nhưng suốt hành trình suy tư, người viết đã khéo gợi ý cho người đọc tự ý tìm Chúa và nói về Chúa.

Vì Chúa Giêsu trong sách này mang dung mạo con người, mạc khải Chúa Cha giàu lòng thương xót, Người gần gũi, luôn kêu gọi, mãi mãi đợi chờ.

 

Chúa Giêsu trong cuốn sách này đã, đang, và sẽ dẫn đưa con người về với Chúa Cha.

 

Chúa Giêsu trong cuốn sách này muốn tặng mọi người hạnh phúc thực. Người chia sẻ thân phận con người với mọi người. Người cùng với mọi người thiện chí biến đổi mọi sự thành lời cầu nguyện, kể cả những khổ đau.

 

Chúa Giêsu trong cuốn sách này đã được nội tâm hoá trong tác giả một cách mật thiết phi thường.

 

  1. Một suy tư mang dấu ấn riêng của tác giả.

 

Sách “Chúa Giêsu thành Nadaret” có nhiều nét giống các sách bàn về Chúa Giêsu. Nhưng suy tư trong cuốn sách này vẫn có nét riêng của tác giả. Nét đó làm nên dấu ấn riêng tư độc đáo của tác giả.

 

Dấu ấn riêng tư đó được nhận ra trong một thao thức của tác giả suốt hành trình suy tư. Thao thức đó là tìm ra chân lý và tình thương trong dung mạo của Chúa Giêsu. Đó là dấu ấn về nội dung.

 

Ngoài ra, người ta dễ dàng nhận ra một dấu ấn khác trong suy tư. Suy tư nói đây là một thứ phản tính nội tâm. Tác giả không ngừng cảnh giác với mọi thứ chấp nhận ngây thơ. Trái lại, Ngài đặt vấn đề, tìm các nguồn tài liệu cần thiết, rồi phân tích, đối chiếu, phê bình, đôi khi phản tỉnh với chính mình một cách nghiêm khác và khoa học.

 

Đọc sách này, người ta không thể lẫn lộn tác giả với các tác giả khác. Nội dung đúng là mang dấu ấn Joseph Ratzinger Bênêđíctô XVI, cách suy tư cũng đúng là mang dấu ấn Joseph Ratzinger Bênêđíctô XVI.

 

Đọc xong cuốn sách “Chúa Giêsu thành Nadaret”, tôi vui mừng cảm tạ Chúa đã ban cho Hội Thánh một vị giáo hoàng như Đức Thánh Cha Bênêđíctô XVI. Với đạo đức cao sâu và với trí thức sâu rộng. Ngài là người Chúa chọn và sai vào vườn nho Chúa, để đáp ứng nhu cầu thời đại.

 

Tuy với trình độ đạo đức và trí thức rất cao, tác giả cuốn sách luôn tỏ ra khiêm tốn bình dị.

 

Sau cùng, tôi có cảm tưởng là : Đức Thánh Cha, khi phát hành cuốn sách công phu này, chỉ có mục đích là giới thiệu Đức Kitô và kêu mời mọi người :

 

-                                 Hãy đến với Chúa Giêsu.

-                                 Hãy tin tưởng vào Chúa Giêsu.

-                                 Hãy cùng đi với Chúa Giêsu.

 

Chúng ta hãy sốt sắng đáp lại lời Ngài mời gọi. Xin nhớ cầu nguyện cho Ngài, và cũng nên bắt chước cách làm việc của Ngài.

 

ĐGM GB Bùi Tuần

Mục lục

 

HIỆP THÔNG GIÁO HỘI

 

 

Chương trình chuyến công du mục vụ của ĐGH Bênêđictô XVI đến Trung Tâm Thánh Mẫu Loreto

 

Roma, ngày 24/08/2007 (Zenit) – Sau đây là chương trình chuyến công du mục vụ của ĐGH Bênêđictô XVI đến Trung Tâm Thánh Mẫu Loreto nước Ý từ ngày mùng 1 đến mùng 2 tháng chín do Văn Phòng Báo Chí Tòa Thánh chính thức loan báo :

Thứ bẩy ngày mùng 1/9 :

Mục lục

 

Tháng 11 sẽ có thêm 15 tân Hồng Y?


VATICAN CITY, 28/08/07 -Cơ quan thông tấn Zenit của Tòa Thánh trích nguồn tin báo chí Italia cho biết trong tháng 11 tới đây ĐTC sẽ tấn phong thêm một số Hồng Y. Tuy nhiên, các giới chức Tòa Thánh chưa xác nhận nguồn tin này.


Theo tin, ĐTC sẽ tấn phong thêm 15 vị Hồng Y cho đủ mức hạn định số cử tri được bầu Giáo Hoàng là 120 vị. Hiện nay số vị đủ tiêu chuẩn tuổi tác để bầu Giáo Hoàng là 105 vị


Tổng số vị trong Hồng Y đoàn hiện nay là 181 vị nhưng 76 vị đã quá 80 tuổi và như thế các vị này không đủ tiêu chuẩn tham dự mật nghị Hồng Y đoàn bầu Giáo Hoàng.


Vào ngày Chúa Nhật vừa qua ĐHY Édouard Gagnon đã qua đời nên số vị đủ tiêu chuẩn hiện nay là 105.Cũng kể từ tháng Giêng năm 2007 đến nay đã có 6 vị Hồng Y vượt quá 80 tuổi. Đến cuối năm nay thêm hai vị nữa quá 80 tuổi. Đó là đức Hồng Y Angelo Sodano, niên trưởng Hồng Y đoàn, nguyên giữ chức Quốc Vụ Khanh Tòa Thánh và ĐHY Edmund Casimir Szoka, nguyên TGM Detroit


Lần tấn phong Hồng Y sau cùng là vào tháng 10 năm 2006. Lúc đó ĐGH Benedict XVI đã nâng 15 vị lên chức Hồng Y trong số đó 12 vị dưới 80 tuổi.


Vào năm 1975 ĐGH Phaolô VI quy định mức tối đa các vị Hồng Y được tham dự bầu Giáo Hoàng là 120 vị. Tuy nhiên ĐGH có thể quyết định số Hồng Y bầu Giáo Hoàng nhiều hơn số quy định nói trên.

Tưởng cũng nên nói thêm, tin ĐGH sẽ bổ nhiệm thêm một số Hồng Y đã được báo chi và giới quan sát tại Tòa Thánh nói tới trong những tháng gần đây. Hôm nay cơ quan ngôn luận Zenit của Tòa Thánh đăng bản tin bổ nhiệm thêm Hồng Y thì chắc hẳn việc Giáo Hội có thêm tân Hồng Y là điều sẽ xảy ra.

 

Mục lục

 

Địa điểm tổ chức Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới tại Úc gặp rắc rối.


Sydney, 29/08/07 –Các nhà huấn luyện ngựa đua đang thương thuyết và tỏ ra cứng rắn đối với giới chức lãnh đạo Công Giáo và chính quyền Úc Đại Lợi về việc dùng trường đua ngựa làm địa điểm cử hành nghi lễ Đại Hội Giói Trẻ Thế Giới tại Sydney Úc vào tháng 8 năm 2008.


Trường đua ngựa Randwick là tài sản và thuộc quyền quản lý của nhà nước đã được chỉ định để làm điạ điểm tố chức Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới mà cao điểm là ngày Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI cử hành thánh lễ cho khoảng 500,000 bạn trẻ đến từ khắp nơi trên thế giới. Đã có sự phối hợp giữa chính quyền và Ban Tổ Chức Đại Hội.


Tuy nhiên, Ban quản đốc trường đua dọa sẽ đưa ban tổ chức Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới ra tòa, không cho dùng trường đua để tố chức Đại Hội, nếu ban tổ chức không bồi thường thiệt hại cho tất cả những ngày trước và sau trường đua được dùng vào mục tiêu đại hội giới trẻ.


Ban quản đốc trường đua cho rằng, ban tổ chức Đại Hội Giới Trẻ chỉ bồi thường cho trường đua có 3 ngày vì đại hội chỉ dùng trường đua 3 ngày. Điều đó không hợp lý vì trường đua phải đóng cửa ít nhất vài tuần trước và sau đại hội để ráp đặt, tháo gỡ các phương tiện tổ chức như bàn thờ, ghế bàn, hệ thống an ninh. Trong khi đó, việc huấn luyện ngựa đua là công tác hàng ngày. Nếu ngựa không được huấn luyện tại trường đua này thì ban quản đốc phải thuê mướn địa điểm khác.


Cho đến nay, Ban Tổ Chức Đại Hội và phía chính quyền Úc vẫn giữ sự im lặng, chưa trả lời Ban quản đốc trường đua.

Mục lục

 

Mẹ Têrêxa, Calcutta : Vị Thánh của đêm tăm tối đức tin


NEW YORK, ngày 25/8/2007 (AFP) – Dựa theo các lá thư sẽ được ấn hành trong cuốn sách “Mother Teresa: Come Be My Light” (Mẹ Têrêxa: hãy đến và trở thành ánh sáng cho con”, đã tiết lộ cho thấy có những đêm tăm tối đức tin vây phủ cuộc đời của Mẹ. Mẹ đã nghi ngờ về sự hiện diện của Thiên Chúa.

Mẹ Têrêxa, vị sẽ được Giáo Hội tôn phong lên bậc Hiển Thánh, đã phải quằn quại trong đức tin suốt cuộc đời của Mẹ và cũng đã có lúc nghi ngờ về sự hiện diện của Thiên Chúa, theo như những bức thư của Mẹ mới được tiết lộ.

« Chúa Giêsu có một tình yêu thật đặc biệt đối với Mục Sư... Nhưng bản thân tôi, sự thinh lặng và sự trống rỗng thật lớn lao... đến nỗi tôi muốn nhìn nhưng chẳng thấy gì, muốn lắng nghe những chẳng nghe thấy gì ! » Mẹ đã viết thư tâm sự như vậy vào năm 1979 cho mục sư Michael Van Der Peet, một người bạn tâm phúc.

Đây là những lá thư mà Mẹ Têrêxa đã muốn một số phải được xé bỏ đi, nhưng sẽ được in ấn trong cuốn sách “Mother Teresa: Come Be My Light” (Mẹ Têrêxa: hãy đến và trở thành ánh sáng cho con”, sẽ được xuất bản vào tuần tới, nhân dịp kỷ niệm 10 năm ngày Mẹ qua đời.

Tuần báo Time của Hoa Kỳ trong ấn bản mới nhất cũng đã cho trích dẫn một vài đoạn của cuốn sách sắp được xuất bản này.

Trong hơn 40 bức thư được viết trong vòng 66 năm, vị nữ tu Công Giáo gốc Albanais đã tận hiến cuộc đời để phục vụ những người nghèo và những người đang hấp hối trong các khu ổ chuột thành phố Calcutta, đã lột tả cho thấy “sự tăm tối”, “sự cô đơn” và “sự xâu xé” mà Mẹ đã trải qua :

« Đức tin của tôi ở đâu… tận sâu thẳm thân tôi, chẳng có gì khác ngoài hư không và tăm tối… Lạy Chúa con… ôi sự khổ não xa lạ này quả thực là khủng khiếp… con mất đức tin mất rồi… » : Mẹ đã viết như thế trong một lá thư không ghi ngày tháng gửi cho Chúa Giêsu.

« Nếu như có Chúa…. Lạy Ngài xin khấng tha tội cho con… khi con cố quy hướng con về Thiên Đàng… nhưng chỉ thấy có một vực thẳm hư vô đầy lầm lỗi… ».

« Con kêu cầu, con cố bám víu lấy, con ao ước điều ấy…. Nhưng chẳng có ai đáp lời… chẳng có ai để con tựa nương, không, chẳng có ai cả… chỉ có trơ trụi một thân một mình con !».

 

Mẹ Têrêxa đã có những thị kiến, được nghe thấy những tiếng của Chúa Kitô kêu gọi. Một trong những cuộc thị kiến này, Mẹ đã chuyện vãn với Chúa Giêsu chịu đóng đinh trên Thánh Giá.


Những quả thực, những lá thư này đã lột tả cho thấy những thoáng giây trái ngược hẳn với khuôn mặt mà quần chúng đã quen biết của một vị nữ tu khoác áo Sari trắng viền xanh dã phải trải qua nhiều năm trong 50 năm cuộc đời của mình trong nghi ngờ sự hiện diện của Thiên Chúa.


Chính Mẹ đã viết trong một lá thư : « Nụ cười chỉ là một mặt nạ »

 

Trong một lá thư khác được viết vào năm 1959, Mẹ đã viết như sau : « Nếu như Thiên Chúa không hiện hữu… thì cũng không thể có linh hồn… Nếu như không có linh hồn thì cả Chúa Giêsu… cả Chúa Giêsu nữa Chúa cũng không hiện hữu ».

Linh mục Brian Kolodiejchuk, người đã thu thập các bức thư này và biên tập cuốn sách, là thành viên của hội dòng Thừa Sai Bác Ái do Mẹ Têrêxa sáng lập, đã được trao phó trách nhiệm lo hồ sơ vận động phong thánh cho Mẹ Têrêxa. Vào năm 2003 Mẹ đã được Hội Thánh tôn phong Chân Phước. Đây là bước khởi đầu dẫn đến việc tôn phong Hiển thánh.


Lm. Kolodiejchuk đã bộc bạch với báo Time như sau : « Tôi chưa bao giờ đọc được tiểu sử của một vị Thánh nam hay Thánh nữ nào đã trải qua đêm tối tăm thiêng liêng dầy đặc đến thế. Chẳng có ai có thể thấu được Mẹ đã bị ray rứt dằn vặt đến thế ! »


Lm. Kolodiejchuk đã tâm sự thêm : « Tôi đã đọc một lá thư cho các nữ tu (của Dòng Thừa Sai Bác Ái) và các nữ tu này đã há hốc miệng kinh ngạc. Điều đó sẽ cho thấy một chiều hướng mới thêm vào cảm nhận mà dân chúng đã có về Mẹ từ trước đến giờ».


Mẹ Têrêxa đã được Giải Hòa Bình Năm 1979 đã có quốc tịch Ấn Độ, và sáu năm sau ngày qua đời vào năm 1997, Mẹ đã được tôn phong Chân Phước, mở đường cho việc tôn phong Hiển Thánh.


Vào năm 1962, Vị Nữ Tu này đã viết như sau : « Nếu có ngày nào tôi trở nên một Vị Thánh … Chắc chắn tôi sẽ là một vị thánh của « tăm tối », vì tôi sẽ luôn vắng mặt khỏi Thiên Đàng »

Lm. Stêphanô Bùi Thượng Lưu

Tổng hợp từ các ban tin Giáo Hội Công Giáo thế giới

Mục lục

 

 

Khám bệnh và phát thuốc miễn phí cho gần 800 bệnh nhân tại Bắc Thần giáo phận Xuân Lộc



ĐỒNG NAI -- Sáng ngày 26/08/2007 quý chị em trong Ban Tông Đồ Dòng Nữ Đaminh Rosa Lima – Miền Mẹ Vô Nhiễm kết hợp cùng quý bác sĩ thiện nguyện thuộc các bệnh viện: Nguyễn Trãi, Đa khoa Thủ Đức, linh mục bác sĩ Hậu dòng Đaminh Việt Nam và một số bác sĩ khác đã đến xã Vĩnh Thanh huyện Nhơn Trạch tỉnh Đồng Nai, khám bệnh và phát thuốc miễn phí cho gần 800 bệnh nhân.

Cha Giuse Nguyễn Văn Học, chánh xứ nhà thờ Bắc Thần cho biết: xã Vĩnh Thanh bao gồm 4 giáo xứ Bắc Minh, Thanh Minh, Nghĩa Yên và Bắc Thần thuộc giáo phận Xuân Lộc. Hôm nay số bệnh nhân đến khám 3 phần tư thuộc giáo xứ Bắc Thần.

Đoàn khám bệnh đến nhà xứ chỉ kịp chào cha xứ rồi bắt tay vào việc, vì bệnh nhân chờ khá đông.

Đúng 8g, bóng áo blue trắng của đoàn bác sĩ và quý Soeur Đaminh đã dần bị vây kín giữa vòng vây các bệnh nhân. Công việc của một ngày phát thuốc là đo huyết áp, khám bệnh, phát thuốc và lần này còn có cô Giang và Lan là hai nha sĩ chăm lo cho sức khỏe của nụ cười. Tiếng loa phát gọi bệnh nhân, tiếng các ông trong ban mục vụ của Bắc Thần điều phối các bệnh nhân đến các bàn khám bệnh. Mọi việc diễn tiến một cách rập ràng như trong bệnh viện, mặc dầu phòng khám bệnh không theo quy củ của bệnh viện mà là nhà giáo lý của giáo xứ, bàn khám mượn của các lớp giáo lý. Chu đáo hơn, nhà xứ còn mượn 6 cái rạp để cho bà con ngồi tránh nắng cũng như các bình nước lọc để chung quanh nơi ngồi đợi khám bệnh.

Ban Tông Đồ của Dòng đã đi khám bệnh rất nhiều nơi nhưng chưa thấy nơi nào tổ chức một cách chặt chẽ, rập ràng và gọn gàng như thế này - Sr. Mỹ Thu cho biết. Những tưởng giáo xứ đã đón nhiều đoàn thiện nguyện trước đó, nhưng khi đem thắc mắc này trao đổi với các ông trùm, các ông cho biết đây là lần đầu tiên giáo xứ mới được đón đoàn bác sĩ đến khám bệnh. Chúng con tổ chức được như thế này có lẽ vì chúng con …đi bệnh viên nhiều. Câu pha trò của ông trùm làm cho mọi người gần gũi hơn nhưng có lẽ cũng có nhiều suy tư trăn trở.

Dù chỉ cách trung tâm Sài Gòn khoảng 25 cây số qua một cái phà, nhưng điều kiện sống của người dân rất thấp. Nghề nghiệp chủ yếu là nông nghiệp, nhưng cũng chẳng còn nhiều đất để làm, con cái dần dần đi làm thuê cho các công ty, để lại nhà các ông bà già. Thỉnh thoảng con cháu mới về một nhoáng thăm nhà rồi lại bươn chải tìm kế sinh nhai.

Có lẽ vậy mà 12 giờ trưa, cha Hậu còn nán lại để khám cho cụ bà Nguyễn Thị Vuột 78 tuổi, chân đi run rẩy, tay chống gậy nhưng dáng vẫn liêu xiêu. Tôi hỏi cụ ở đâu mà tới vào giờ mặt trời đứng bóng thế này, con cháu đâu không chở cụ tới? Rồi bần thần nghe cụ tâm sự: Nhà tôi ở giáo xứ Bắc Minh, cách đây chỉ gần 3 cây số, tôi đi bộ tới đây. Lúc khỏe thì đi, mệt ngồi nghỉ bên đường. Có lẽ vậy mà đoạn đường chỉ vài phút đi xe máy mà cụ bà đã đi từ 9 giờ sáng đến 12 giờ trưa mới tới nơi. Các con của tôi đi làm công nhân hết rồi. Cầm bịch thuốc với ánh mắt rưng rưng cụ lại chống gậy trở về. Nhưng đoạn đường về nhanh hơn vì đã có người tình nguyện làm xe ôm không công giúp cụ.


Sr. Andre Đỗ Thị Hương cho biết, bệnh nhân ở đây hầu hết là người lớn tuổi các bệnh như:cao huyết áp, tim mạch, đau nhức, chóng mặt, viêm dạ dày, rối loạn tiền đình…còn các em bé thường là suy dinh dưỡng, sâu răng…và một số bệnh thông thường khác.


Một ngày tất bật khám và phát thuốc mệt nhưng bù lại rất vui, một bác sĩ chia sẻ trên đường trở về: tôi là người không công giáo, lần đầu tiên đi cùng với các Soeur, đến giáo xứ, thấy được đón tiếp ân cần, nồng hậu, gần gũi…niềm vui nhận được đầy tràn. Khi đi khám thiện nguyện với đồng nghiệp tại bệnh viện đang công tác, chúng tôi thường không được địa phương tiếp đón như ở đây. Ước mong sự thân tình của mọi người con Chúa sẽ là điểm sáng cho anh chị em gọi chúng ta như những từ ngữ thuở ban đầu khi Kitô giáo mới đặt chân trên đất Việt, chúng ta được gọi: đó là đạo của những người thương nhau.


Gần 800 bệnh nhân, quả là một con số kỷ lục với chỉ hai soeur đo huyết áp (chắc chắn sẽ bị phồng tay và ù tai). Con số bệnh nhân ấy với 7 bàn khám bệnh, vị chi mỗi bác sĩ sẽ khám cho hơn 100 người. Một ngày quả là vất vả, nhưng niềm vui vẫn đong đầy trên từng khuôn mặt. Ước mong những chia sẻ ấy như là một dấu ấn tình yêu mà Thiên Chúa tặng ban cho người đến cũng như người đi. Để tất cả những gì vượt trên những vất vả của một ngày sẽ không phai mờ trong trái tim của những người đã lãnh nhận niềm vui. Niềm vui được hạnh phúc chia sẻ và niềm vui hạnh phúc đón nhận.

 

Sr Minh Nguyên

Mục lục

 

 

Các Bà Mẹ Công Giáo Giáo Phận Nha Trang mừng lễ Bổn Mạng Thánh Nữ Mônica



Nha Trang 27/8/2007 - Hơn 2500 bà mẹ công giáo của toàn Giáo phận Nha Trang đã hành hương về Nhà Thờ Chánh Toà để cử hành lễ mừng Bổn Mạng Các Bà Mẹ Công Giáo: Thánh Nữ Mônica.


Từ sáng, các đoàn xe từ các giáo xứ tuôn về Thành phố Nha Trang. Trời hôm nay nắng đẹp. Biển xanh ngắt. Một số đoàn đã đi một vòng ngắm cảnh Nha Trang. Một số đoàn như: Quảng Thuận, Phước Thiện-Đá Hàn, Vĩnh An, Phú Quý-Đá Trắng đã ghé Toà Giám Mục chào thăm Đức Cha Phó Giuse, chụp hình lưu niệm, ăn trưa, chuẩn bị đồng phục để hành hương về Nhà Thờ Chánh Toà Nha Trang...

 

Đúng 12 giờ 30 tất cả đều ổn định trật tự để nghe giảng tĩnh tâm.


15 giờ 00 Đức cha Phó Giuse chủ tế thánh lễ đồng tế kính nhớ Thánh Nữ Mônica. Trong bài giảng, Đức cha Giuse xoáy quanh 3 điểm chính:


- Các bà mẹ công giáo phải là người bảo vệ kho tàng của Giáo phận: hàng Linh mục.


- Các bà mẹ công giáo phải là người nuôi dưỡng và cổ võ ơn gọi linh mục tu sĩ.


- Các bà mẹ công giáo phải là người truyền giáo.


Sau phép lành Toàn Xá mọi người ra về trong hân hoan với lòng đầy nhiệt huyết cho một viễn ảnh truyền giáo mới.

 

 

Mừng lễ thánh nữ Monica bổn mạng các bà mẹ giáo xứ Tuy Hòa

 

TUY HÒA -- “Như mặt trời mọc lên chiếu sáng sự cao cả của Thiên Chúa thế nào, thì người vợ hiền lành cũng sẽ là vật trang trí cho tư thất của mình như vậy.” (Hc 26,16)


Một người vợ, người mẹ được Giáo hội và muôn thế hệ cảm phục và nhận làm gương mẫu chính là Monica. Bằng sự kiên trì, nhẫn nại trong cầu nguyện, bà đã đưa được người chồng nóng nẩy, người mẹ chồng gắt gỏng trở lại với Chúa, nhất là biến đứa con hư hỏng của mình trở nên một vị thánh lớn của Giáo hội. Mừng lễ Bổn mạng Monica hôm nay, những người mẹ công giáo Tuy Hoà quyết theo gương thánh nữ đã dành một buổi để gặp gỡ nhau, đặc biệt giao lưu với các mẹ của giáo xứ Đồng Tre bao gồm họ Đa Lộc và Suối Ré.


Được sự hướng dẫn của các Soeurs dòng Phaolô, các mẹ có một giờ học hỏi sâu hơn vai trò làm vợ và làm mẹ.


Để làm được một người vợ hiền cần cố gắng tập luyện được các đức tính:


- Tôn trọng chồng

- Vâng lời chồng

- Chịu đựng chồng

- Yêu thương chồng

- Hy sinh cho chồng

- An ủi chồng


Vì vợ hiền là ước muốn của mọi người chồng: “ Được vợ hiền, ưu phiền cũng hết. Gặp vợ dữ, sinh sự tối ngày


Trong sách Châm ngôn dạy: “Người vợ hiền là mão triều thiên của chồng


Với lòng đạo đức biết kính sợ Thiên Chúa, luôn học cùng Chúa Giêsu là Đấng hiền lành như vậy các mẹ sẽ trở thành Hiền thê Công giáo đúng nghĩa để phục vụ cho hạnh phúc, phục vụ cho phần rỗi của chồng như thánh nữ Monica.


Mẹ là món quà vô giá do Thiên Chúa ban nhưng được làm mẹ hiền thì phải do chính công khó của người mẹ làm nên. Vì vậy để trở nên hai tiếng Mẹ Hiền cần phải:

.Làm mẹ hiền thật là cái giá cao mà người mẹ phải trả, nhưng trong âm thầm đã có biết bao mẹ hiền đã trao tặng cho xã hội, Giáo hội và gia đình những đứa con thật tuyệt vời. Không ai khác, Monica chính là mẹ hiền thật sự.

 

Cùng nhau phấn đấu và phát huy với những đức tính đã có và sẽ có, các mẹ hiệp ý tạ ơn Chúa qua thánh lễ vì Ngài đã ban cho họ chu toàn được bổn phận làm vợ, làm mẹ.


Một lần nữa, lời Chúa trong sách Huấn ca đã nhắc lại vai trò của người vợ trong gia đình:


Phúc cho người chồng có được một người vợ hiền lành, vì sẽ được sống gấp đôi.

Một người vợ hiền lành là gia sản quí giá, nàng sẽ được ghi vào sổ những kẻ kính sợ Thiên Chúa, sẽ mang lại cho chồng những công đức.

Người vợ đức hạnh sẽ làm cho chồng được sung sướng và được khoái trá tận xương tuỷ.

Khi có được một người vợ thánh thiện và danh thơm tiếng tốt vì một tâm hồn trong sạch thật là vô giá…”

Ngay cả Thánh Phêrô cũng khuyên nhủ những người vợ, người mẹ:


Ước chi vẻ duyên dáng của anh chị em không hệ tại cái mã bên ngoài như kết tóc, đeo vòng vàng hay ăn mặc xa hoa; nhưng là con người nội tâm thầm kín, với đồ trang sức không bao giờ hư hỏng là tính thuỳ mị, hiền hoà: đó chính là điều quí giá trước mặt Thiên Chúa”.


Sau khi nhận lấy lương thực thiêng liêng là Lời Chúa và Thịt Máu Chúa Giêsu, các mẹ đã thêm phần hăng hái bước vào buổi sinh hoạt giao lưu.


Với óc sáng tạo và linh hoạt, các soeurs Phaolô phát hoạ hình ảnh đi kèm những vật dụng để chỉ về những người phụ nữ nổi tiếng trong cựu ước, nhờ đó đã giúp cho các mẹ biết lý giải, biết phán đoán, nhanh nhẹn, tài trí…Trò chơi nhìn tranh vẽ để kể lại câu chuyện người phụ nữ trong gia đình gặp đau khổ nhưng vượt qua được. Từ trò chơi này nhóm một trình bày suôn sẻ, mạch lạc, lời văn bóng bẩy trau chuốt nói lên được tính cách người phụ nữ rõ ràng, dứt khoát. Ngược lại nhóm hai thì pha chút khôi hài mang lại tiếng cười cho mọi người thì lại nói lên tính cách người phụ nữ luôn vui vẻ tạo ra niềm vui cho gia đình. Còn nhóm ba thì có vẻ chất phát, nghĩ sao nói vậy, nó thể hiện sự thật thà của người phụ nữ.


Hiểu được vai trò quan trọng của người mẹ là chấp nhận, là cưu mang, là sinh thành mà Thiên Chúa ban cho, từ đó kết hợp với niềm tin và lòng yêu thương vào Chúa sẽ biến đổi tất cả qua lời bầu cử của thánh Monica đặc biệt cho các bà mẹ Công giáo luôn chịu đựng, hy sinh, cầu nguyện liên lỉ để gìn giữ gia đình hạnh phúc.


Chúng ta không quên được một người mẹ trên hết các người mẹ chính là Maria.Giờ đây, chúng con quây quần bên Mẹ, được nép bên lòng Mẹ như những đứa con thơ, chúng con mang theo bao tâm tình của người mẹ, người vợ đặt vào trái tim từ mẫu của Mẹ để được Mẹ dìu dắt chở che. Thế giới hôm nay đang đe doạ con người, lôi kéo con người ra khỏi tình yêu Thiên Chúa. Làm thế nào để trổ sinh hoa thơm trái ngọt? đó chính là biết giáo dục con cái theo tinh thần Kitôgiáo, biết chu toàn bổn phận làm vợ làm mẹ và cuối cùng là biết: “Ngồi dưới chân Chúa để nghe lời Người”.

 

Matta Hoàng

Mục lục

 

 

LỄ LÀM PHÉP CHUÔNG MỚI NHÀ THỜ ĐÁ VĨNH HOÀ (SÀI GÒN)

 

Chiều Thứ Ba 28.8.2007 tại nhà thờ giáo xứ Vĩnh Hoà (Sài Gòn) đã diễn ra lễ tạ ơn và làm phép chuông mới. Đức Hồng y Gioan Baotixita Phạm Minh Mẫn đã đến chủ tế thánh lễ, cùng đồng tế có sự hiện diện của cha Giuse Phạm Bá Lãm, hạt trưởng hạt Phú Thọ, cha Giuse Vũ Mạnh Hùng, chánh xứ đương nhiệm và khoảng 12 linh mục thân quen. Mở đầu thánh lễ, Đức Hồng y làm phép bộ chuông mới của giáo xứ Vĩnh Hoà, sau đó tiếng chuông được vang lên giữa cộng đoàn phụng vụ.

 

Phần cử hành phụng vụ Lời Chúa trong thánh lễ làm phép chuông mới được lấy từ các bài đọc lễ thánh Gioan Tẩy giả bị trảm quyết, bổn mạng của cộng đoàn giáo xứ Vĩnh Hoà

 

Trong phần bài giảng, Đức Hồng y đã nhắn nhủ mọi người tín hữu phải biết ta ơn và xin ơn Chúa. Vì Chúa tuôn đổ biết bao hồng ân xuống trên chúng ta qua những người đã gieo trồng hạt giống đức tin, đó cò thể là các vị tử đạo, những ông bà cha mẹ của chúng ta. Và chúng ta cũng phải biết cầu xin Chúa cho mình được trung thành trong đức tin.

 

Sau thánh lễ, cha chính xứ Giuse Vũ Mạnh Hùng đã phát biểu đôi lời cám ơn Đức Hồng y, Cha hạt trưởng, quý cha và bạn bè thân hữu đã yêu thương quan tâm đến giáo xứ Vĩnh Hoà trong suốt thời gian qua, và nhất là những vị ân nhân đã giúp đỡ đóng góp một bộ chuông mới cho giáo xứ. Làm phép chuông mới hôm nay là công việc tiếp theo sau việc khánh thành thánh đường mới hôm 24..6.2007 vừa qua nhân lễ sinh nhật thánh Gioan tẩy giả và thời gian tới giáo xứ Vĩnh Hoà tiếp tục với công trình mới là 14 chặng đàng thánh giá trong khuôn viên nhà thờ.

 

Martin Lê Hoàng Vũ

Mục lục

 

 

 

TÌM HIỂU & SỐNG ĐẠO

 

Bài gợi ý suy tư nhân ngày HIỀN MẪU MONICA 27.08

VAI TRÒ NGƯỜI PHỤ NỮ TRONG CÔNG CUỘC LOAN BÁO TIN MỪNG

Dẫn nhập:

Đọc lại các trình thuật về biến cố PHỤC SINH, quả thật, có một điều làm chúng ta ngạc nhiên đến sững sờ, đó là: một chuyện hi hữu, vĩ đại như thế, “TIN MỪNG ĐỨC KITÔ PHỤC SINH”, mà Chúa lại dùng một “Phương tiện truyền thông” rất đơn sơ, rất giới hạn, để loan truyền, để công bố, để “tiếp thị”; vâng, Chúa dùng một phụ nữ, một phụ nữ tội tỗi hoàn lương: Bà Ma-ri-a Mác-đa-la: Bà Ma-ri-a Mác-đa-la đi báo cho các môn đệ: “Tôi đã thấy Chúa”, và bà kể lại những điều Người đã nói với bà. (Ga 20,18). Và chúng ta cũng đã biết những gì đã xảy ra tiếp sau “lời loan báo” đó trong chính “Ngày Thứ Nhất trong tuần, nối dài mãi tới hôm nay và cho đến ngày tận thế: hàng hàng lớp lớp con người, trẻ già lớn bé, giàu có hay nghèo hèn, nô lệ hay tự do, chức quyền hay dân đên, ở phố thị hay đồng quê, trong thế giới vãn minh hay tối tãm lạc hậu, bệnh hoàn tật nguyện, ốm đau giẫy chết, hay cao sang quyền quí trí giả uyên thâm…vâng, tất cả đã tuôn đến, đã lao mình, đã qui tụ chung quanh Một Đâng Phục Sinh mà Bà Ma-ri-a Mác-đa-la đã làm chứng, đã loan truyền đã mời gọi. Và cho đến hôm nay, sau 21 thế kỷ “phát thanh trên mọi làn sóng của nhân loai”, sứ điệp phục sinh” của người phụ nữ tầm thường đó, Tin Mừng Cứu độ do người đàn bà tội lỗi hoàn lương công bố đó đã “vang đến tận cùng” mọi biên giới của trái đất, như lời khẳng định từ xa xưa của Thánh vịnh: “tiếng chúng đã vang dội khắp hoàn cầu, và thông điệp loan đi tới chân trời góc biển” (Tv 18,5).

Như vậy, chúng ta có nói rằng: Người phụ nữ chiếm một vai trò quan trọng, rất quan trọng là đàng khác, trong công cuộc Loan Tin Mừng của Hội Thánh, thì chắc chắn đó không phải là một sự “cường điệu” quá đáng để “nịnh đầm” quí bà, quí cô, mà là một khẳng định có nền tảng mặc khải và hoàn toàn “trong luồng” truyền thống của Giáo Hội. Chúng ta có thể dừng lại để chia sẻ với nhau đôi điều về nội dung nầy.

I. Phụ Nữ, Đại Biểu Chính Thức Của Nhóm “Người Nghèo Của Gia-Vê” Để Thực Hiện Công Trình Của Thiên Chúa:

 

Mở đầu “Bài Giảng Trên Núi”, Đức Ki-tô đã long trọng tuyên cáo: “Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ” (Mt 5,3). Và trong ngôn ngữ của Thánh Kinh, “nghèo khó” có nghĩa là “tuyên xưng Thiên Chúa là sản nghiệp duy nhất đích thực của con người” (Tông huấn Đời Thánh Hiến số 21). Và chúng ta cũng biết rằng, khi Đức Ki-tô tuyên cáo như thế về kẻ nghèo, và không chỉ tuyên cáo, mà Ngài đã lựa chọn, đã ứng xử, đã sống và đã chết như một kẻ nghèo thật sự, thì đó cũng chỉ là một “tiếp nối ngoạn mục” sứ điệp của các sứ ngôn đã loan báo thời cựu ước, tiếp nối những giáo huấn cãn bản Thiên Chúa đã từng bước huấn luyện lòng tin cho Ít-ra-en. Thế nhưng, “đại biểu thường xuyên” cho những nguơi nghèo đó, cho “nhóm nghèo của Gia-vê” đó, lại chính là những người phụ nữ. Trong bản Gia phả của thánh Matthêô (Mt 1,1-16) có tên bốn người phụ nữ không được tiếng tốt cho lắm: Ta-ma, một người loạn luân (St 38), Ra-kháp, một gái mãi dâm (Gs 2), Rút, một kẻ ngoại giáo (R 3-4) và Bát-sê-ba, một người ngoại tình (2 Sm 11,12). Rồi chúng ta còn thấy Thiên Chúa dùng những phụ nữ chân yếu tay mềm như Đê-bo-ra, như Es-Ther, Giu-đi-tha… để chiến thắng, để hạ gục những bậc tu mi nam tử khét tiếng anh hùng. Rồi khi bước sang Tân ước, hình ảnh của một Đức Ma-ri-a, với đôi chân nhỏ bé hiền lành vượt qua những dặm đường dài từ bắc xuống nam để “đi thãm bà chị họ I-sa-ve và loan tin mừng Con Chúa Nhập Thể; hình ảnh đó phải chãng là một biểu tượng tuyệt vời nhất, thâm thúy nhất cho sứ vụ “Loan báo Tin Mừng” của Hội Thánh muôn nơi và muôn thuở. Bài ca Ma-gni-fi-cat của Người Phụ Nữ trên mọi phụ nữ ấy, cho tới mãi hôm nay vẫn vang lên trong từng hơi thở của cuộc sống đức tin của Dân Chúa phải chãng là lời tuyên tín của những người nghèo, là khẳng định bất di bất dịch sự lựa chọn và cung cách ứng xử thường xuyên của Thiên chúa: “Chúa giơ tay biểu dương sức mạnh, dẹp tan phường lòng trí kiêu cãng. Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường. Kẻ đói nghèo Chúa ban của đầy dư, người giàu có, lại đuổi về tay trắng…” (Lc 1,46-56). Điều đó đã cắt nghĩa rơ hơn cái giá trị tuyệt vời của “đồng xu dâng cúng của một bà góa” (Mc 12,41-44), điều đó làm rơ nét hơn hành vi quảng đại của cô Ma-ri-a Bê-ta-ni-a khi “đập bể bình dầu thơm cam tùng để xức chân cho Chúa” (Ga 12,1-8). Vâng, chỗ đứng của người phụ nữ, vị trí của người mẹ, người vợ cho dù khiêm tốn, ẩn khuất cách nào, thì với cách nhìn của Thiên Chúa, và trong sự “vận dụng” đầy sáng tạo và quyền nãng của Thiên Chúa, đã, đang và mãi mãi “cần thiết ghê gớm” cho công trình của Thiên Chúa.

II. Hội Thánh Có Thích Chọn Lựa Như Thế Để Dấn Thân Truyền Giáo Không ?

Quá thích đi chứ. Đức Giáo Hoàng Gioan-Phaolô II đã khẳng quyết: “Sự lựa chọn người nghèo nằm trong chính cái lư của tình yêu được sống như Chúa Kitô đã sống. Tất cả các môn đệ Chúa Kitô phải có sự lựa chọn nầy…” (Tông huấn Đời Thánh Hiến số 82). Lịch sử Giáo Hội chẳng phải đã rực sáng lên, đã tỏa ngát mùi hương thơm thánh thiện với những người phụ nữ như Mo-ni-ca, như Tê-rê-xa Hài đồng Giêsu, như Anê Lê thị Thành, như Mẹ Tê-rê-xa thành Cal-cut-ta…Phải chãng, những gương mặt tuyệt vời đó, những người phụ nữ khiêm hạ, hiền lành thánh thiện dó đã vun xới cho Ngôi Nhà Hội Thánh thêm đẹp thêm xinh, cho Tin Mừng Chúa Kitô vang vọng mạnh mẽ đến muôn vạn trái tim con người. Thư chung của HĐGMVN, tháng 10/2003 đã tổng quát hóa những phương cách để truyền giáo hôm nay bằng những lời sau: “Để chân lư Phúc Âm trở nên trong suốt, dễ hiểu, dễ đón nhận, ta phải dùng những phương tiện phù hợp với con người hôm nay…đó là cung cách thấm nhuần tinh thần Phúc Am, được diễn đạt với thái độ khiêm nhu, chân tình, thân ái…”. Quả thật “xưa rồi diễm ơi” cái lối truyền giáo dựa trên “quyền lực phủ đầu”, trên phô trương hào nhoáng bên ngoài, trên kiêu cãng hợm hĩnh của sự giàu có hoặc thế lực chính trị… Con đường “nâng nhân loại lên với Đức Kitô” vẫn là con đường “khi ta bị treo lên”, con đường của Máng cỏ, Thập giá.

Và như thế, những công việc xem ra tũn mũn thấp hèn như đi chợ, nấu ãn, như nuôi con, vá áo, những hy sinh thầm lặng của những người mẹ dù nghèo nàn vất vả vẫn can đảm nuôi dạy con nên người, vẫn trung thành trong bổn phận làm mẹ làm vợ cách tuyệt vời, thánh thiện…những công việc đó, những trái tim đó, những hiện diện đó là những ngọn lửa đang thắp sáng ngôi nhà thế giới, đang sưởi ấm gia đình nhân loại. Trong ngôn ngữ của Kinh thánh, phải chãng đó là chính những người “lính canh được Thiên Chúa cắt đặt trên các tiền đồn của thành trì Thiên Chúa” mà phần nào bài hát Huyền Thoại Mẹ bất hủ của Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã diễn đạt trong một bối cảnh khác: “Mẹ về đứng dưới mưa che đàn con nằm ngủ, canh từng bước chân thù, mẹ ngồi dưới cơn mưa…Mẹ là gió uốn quanh, trên đời con thầm lặng, trong câu hát thanh bình, mẹ làm gió mong manh…”.

Kết luận:

Như thế, điều còn lại để nhắc nhở nhau, để cầu nguyện cho nhau, để hổ trợ nhau đó là làm sao “có thật nhiều điều mình sẽ cho”, điều mình loan báo, điều mình làm chứng. Các bà, các chị có thể đọc lại lời dạy của ĐGH Gioan-Phaolô II trong Tông huấn Giáo Hộ tại Á Châu để ư thức điều nầy:

“Việc loan truyền nầy là là một sứ vụ cần những con người nam nữ thánh thiện, họ sẽ làm cho Đấng Cứu Thế được biêt và được yêu suốt đời của họ. Một ngọn lửa chỉ được cháy lên bằng cái gì đã bén lửa. Cũng vậy, việc loan truyền Tin Mừng cứu độ tại Á Châu chỉ có thể đạt hiệu quả, nếu các Giám Mục, các hàng Giáo sĩ, những kẻ sống đời thánh hiến và giáo dân, cháy bỏng tình yêu Chúa Kitô và nung đốt nhiệt tâm làm cho Người được biết đến cách rộng rãi hơn, được yêu mến cách sâu xa hơn, và được theo sát ngay bên hơn. Người Kitô hữu muốn nói về Chúa Kitô thì phải làm cho đời sống mình thấm nhuần sứ điệp mà họ rao giảng.” (GHTAC số 23)

Kể từ khi Chúa Giêsu ngỏ lời với các tông đồ: "Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít " (Mt 9, 37) cách đây 2000 nãm, cho tơi mãi hôm nay, chưa lúc nào công việc truyền giáo, tông đồ bị coi là không cần thiết, không hợp thời. Khi nhìn vào bối cảnh nhân loại hôm nay và thực trạng của Giáo Hội hiện thời,, nhất là Giáo Hội tại Việt Nam, chúng ta sẽ nhận thức tính cách khẩn thiết của sứ vụ tông đồ trong Giáo Hội nói chung và vai trò chứng ta của giới phụ nữ nói riêng. Chính vì thế, mỗi một người mẹ, người vợ Công giáo cần phải luôn trang bị cho mình một quan tâm sâu sắc và một cảm thức bén nhậy về sứ vụ tông đồ, về công cuộc loan báo Tin mừng. Điều cần thiết nhất mà chúng ta, mọi kitô hữu, có thể và phải trao cho nhân loại đó là chính Chúa Kitô. Chúng ta có thể nói và hành động như Thánh Phêrô ngày xưa: "Vàng bạc thì tôi không có. Nhưng cái tôi có tôi cho anh đây: Nhân danh Đức Giêsu Kitô người Na-da-rét, anh đứng dậy mà đi" (Cv 3, 6).

Đọc lại những trang sử hào hùng của Giáo Hội, chúng ta luôn thấy ngời sáng lên những "bước chân tuyệt vời của những người loan Tin Mừng", những chứng tá hùng hồn của biết bao nhiêu người làm mẫu gương, điểm qui chiếu và gợi hứng cho chúng ta hôm nay và mãi mãi. Những lời kinh tuyệt vời của Thánh Phan-xi-cô thành Assisi, tâm hồn "thơ bé nhưng vĩ đại của Thánh Nữ Tiến sĩ Tê-rê-xa Hài Đồng, những bước chân không mệt mơi của Thánh Phan-xi-cô Xa-vi-ê, tình yêu trong sáng, rạng ngời của Á Thánh An-rê Phú-Yên, bàn tay ốm yếu, gương mặt nhãn nheo luôn chạm tới người nghèo của Mẹ Thánh Tê-rê-xa thành Cal-cut-ta, lòng can đảm hy sinh anh hùng của Thánh Nữ Anê Lê Thị Thành…tất cả đã trở thành những hành trang quí giá và cần thiết cho chúng ta hôm nay.

Cuộc dấn thân cho ơn gọi ngôn sứ - tông đồ luôn đòi hỏi nhiều hy sinh, gian khổ, nhiều khi phải thí cả mạng sống. Tuy nhiên "Can đảm lên, Thầy đã thắng thế gian, và Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế" (Ga 16, 33; Mt 28, 20)

Lm Giuse Trương Đình Hiền

AI HẠ MÌNH XUỐNG SẼ ĐƯỢC NHẮC LÊN

Một nhà khoa học mới sáng chế ra và áp dụng trên chính mình một phương pháp nhân bản vô tính hoàn hảo đến nỗi không ai có thể phân biệt được ông với phiên bản của ông. Khi biết Thần Chết đang kiếm mình ông cũng không hề sợ vì ông đã có 12 phiên bản giống hệt ông.

Lần đầu tiên gặp ông và 12 phiên bản, Thần Chết phải trở về tay không vì không được phép bắt lầm, và nhà khoa học xoa tay vui vẻ.

Nhưng sau đó không lâu Thần Chết trở lại với một “khí cụ dò tìm đặc biệt”. Cầm khí cụ trên tay, Thần Chết nói : “Này, nhà khoa học, ông thật là một thiên tài khi làm ra những phiên bản giống mình như thế. Tuy nhiên ta đã khám phá ra và sẽ chỉ cho ông thấy một sơ suất trong công trình của ông, một đặc điểm quan trọng mà các phiên bản không có được.”

Nghe đến đó, nhà khoa học nhảy chồm lên, sừng sộ : “Làm gì có sơ suất! Đâu? Sơ suất chỗ nào?”

Thần Chết túm ngay lấy gáy nhà khoa học và nói : “Chỗ này nè!”

Ôi! Nhà khoa học thông thái mà sao lại khờ thế!?

Nhưng nhìn lại mới thấy đó là cái dại của hầu hết mọi người mà Lời Chúa đã vạch ra : “những kẻ được mời, chọn chỗ nhất”.

Cái dại đó bắt đầu từ tổ tông loài người khi dám trái lời Chúa chỉ vì chữ “tinh khôn” : “Người đàn bà thấy trái cây đó ăn thì ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn. Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với mình; ông cũng ăn.”

Quên đi sự thiện hảo đang có, ông bà phải đối diện ngay với sự thật hèn mọn của mình : “Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng: họ mới kết lá vả làm khố che thân.” (St 3,6-7)

Cái dại đó vẫn còn tiếp tục trong lịch sử nhân loại, khi người ta để hai chữ ‘hơn-thua’ điều khiển cuộc sống : “Kẻ ích kỷ chạy theo dục vọng, và nổi giận trước mọi lời khuyên. Người ngu không ưa chuyện hiểu biết, nhưng thích phô bày cảm nghĩ riêng.” (Tv 18,1-2)

Đấng dựng nên con người mới có câu trả lời về hạnh phúc của họ : “Suy nghĩ lo toan là việc của con người, còn nói câu trả lời là do Đức Chúa.” (Cn 16,1), nhưng tính tự cao tự đại ngăn cản người ta gặp được sự thật,  làm cho họ bỏ sự thật qua một bên để chạy theo điều giả dối, và để hạnh phúc phải tuỳ thuộc vào những điều nay còn, mai mất : “Chúng cậy vào của cải, lại vênh vang bởi lắm bạc tiền.” (Tv 49,7)

Người tự cao tự đại tự đánh lừa mình khi phủ nhận bản chất hèn mọn của mình, tự cho mình là khôn. Thế nên “Nếu con gặp một kẻ tự cho mình là khôn, thì thà hy vọng vào đứa ngu còn hơn.” (Cn 26,12)

Tự cao tự đại là sự mù quáng hết thuốc chữa của Satan : “Tai hoạ dành cho kẻ kiêu căng thì vô phương cứu chữa, vì mầm mống tội lỗi đã ăn sâu vào lòng chúng mà chúng không hiểu.” (Hc 3,28)

Người tự cao tìm kiếm lời ca tụng, nhưng lời ca tụng chẳng làm ai lớn lên, thậm chí lời ca tụng còn hạ thấp và giết chết tâm hồn khi nó làm cho người ta hài lòng thoả mãn và dừng lại ở đó, như thư gửi tín hữu Do thái đã cảnh báo cho những ai muốn tìm kiếm hạnh phúc thật : “Anh em thân mến, không phải anh em tiến đến một ngọn núi có thể sờ được, hay lửa cháy, gió lốc, mây mù, bão táp, …” (Dt 12,18)

Sự thật là thần dược cho kẻ kiêu căng. Người khiêm nhường trước hết phải biết đúng chỗ đứng của mình : “Khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết.” (Lc 14,10)

Khi biết chỗ đứng của mình, người khiêm nhường sẽ biết tìm kiếm điều cần phải tìm kiếm : Sự thiện hảo không nằm ở văn bằng mà ở khả năng, không ở tiếng khen mà ở việc làm, không ở chức vị mà ở khả năng phục vụ, không phải ơ những gì tôi có, mà ở những gì tôi là.

Đúng lúc nhận biết sự thật về mình là lúc người ta nhận biết sự thật về tình thương của Chúa. Đó cũng là lúc họ tìm gặp được sự bình an Chúa chỉ mạc khải cho những tâm hồn bé mọn : “Lòng con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào, Chúa ơi! Đường cao vọng, chẳng đời nào bước, việc diệu kỳ vượt sức, chẳng cầu; hồn con, con vẫn trước sau giữ cho thinh lặng, giữ sao thanh bình. Như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con, hồn lặng lẽ an vui. Cậy vào Chúa, Ítraen ơi, từ nay đến mãi muôn đời muôn năm.” (Tv 131,1-3)

Thật đúng là “Ai hạ mình xuống sẽ được nhắc lên”!

HK

 

KHẢ NĂNG NÓI KHÔNG

 

Có và Không là hai tiếng chúng ta thường dùng nhất, và thông thường thì không có gì khó khăn. Nhưng có những trường hợp việc nói có, nói không chẳng phải là chuyện dễ dàng. Trước hết, đó là khi lời nói của chúng ta liên quan quyết định trên cuộc đời chúng ta hay trên số phận người khác, chẳng hạn là cam kết trong hôn phối, lời khấn hứa trong đời tu hoặc lời làm chứng, lời phán quyết trong một vụ án. Thứ đến, và phổ biến hơn cả là nói có với các tốt, cái đúng và nói không với cái xấu, cái sai. Từ chối một mối lợi lớn nhưng bất chính để chấp nhận một công việc lương thiện, lương thấp, điều ấy dễ hay khó, ai cũng biết rồi. Khả năng nói có, nói không ở đây là khả năng tự do đích thực, nó không nằm trên phạm vi tâm lý mà thôi, nhưng trên phạm vi đạo đức, một phạm vi sâu xa cấu tạo nên phẩm giá và quyết định giá trị của con người.

 

Sự cao cả bẩm sinh.

 

Những chương đầu của sách Sáng thế cho chúng ta biết những chân lý căn bản sau đây :

 

- Thiên Chúa là Đấng tạo thành vạn vật;

 

- Mọi sự Chúa làm đều tốt đẹp.

 

- Con người có một địa vị đặc biệt trong tạo thành : là hình ảnh của Thiên Chúa, có trí khôn và tự do, được thay quyền Chúa làm chủ tạo thành.

 

- Con người được tạo nên để sống và sống hạnh phúc sung mãn. Hạnh phúc ấy chỉ đạt được khi con người trung thành với nguồn cội của mình, biết thể hiện mình như một vật linh thiêng, một vật mang tính “đạo đức”, nghĩa là có tự do và trách nhiệm, biết nói có với chân thiện mỹ và nói không với sự giả trá, xấu xa. Điều này nằm trong bản tính con người đến nỗi xấu xa nhất cũng vẫn là người đi tìm hạnh phúc, cho dù đó là hạnh phúc giả dối, và vẫn nhìn nhận rằng làm thiện là đúng, làm ác là sai. Trung thành với nguồn cội mình, đối với con người, cũng có nghĩa là lệ thuộc vào Thiên Chúa, Đấng Toàn Chân, Toàn Thiện, Toàn Mỹ và yêu thương con người. Chính trong sự lệ thuộc đó mà con người thật sự được tự do.

 

Một sự cao cả khó khăn và bi đát.

 

Nhưng Kinh Thánh đã cho thấy rằng tự do là con dao hai lưỡi nó có thể được sử dụng để phục vụ con người hoặc chống lại nó. Qua câu chuyện về A-dong, E-và ăn trái cấm, một câu chuyện có tính dân gian. Kinh Thánh nói lên giáo lý cốt yếu về tội lỗi : Tôi không phát sinh từ Thiên Chúa, nhưng từ chính con người khi họ sử dụng sai khả năng tự do của mình để nói không với sư Thật và Sự Thiện (mình chỉ là tạo vật mà tự coi là tuyệt đối, có quyền định đoạt cái gì là đúng và tốt, cái gì là sai và xấu; cụ thể là loại trừ Thiên Chúa, tự đặt mình làm Thiên Chúa).

 

Kinh nghiệm lịch sử và kinh nghiệm bản thân mỗi người đều có thể cho thấy rằng thể hiện mình bằng cách thể hiện tự do một cách đúng đắn là một trách nhiệm rất khó đảm đương đối với con người và thường đưa tới những điều bị đát. Có thể nói tội của A- dong, E-và là tội “mẫu”, tội “tiêu biểu”, nghĩa là con người mọi nơi đều bị cám dỗ coi Thiên Chúa là thù địch đối với tự do của mình, tự khẳng định mình bằng cách phủ nhận Thiên Chúa. Không phải chỉ có những nhà cách mạng như Các–Mác hay những triết gia như Nít-sơ, Giăng–Pôn- Séc–trơ và An–be-Ca-muy mới quả quyết : nếu Thiên Chúa hiện hữu thì con người là hư vô”, mà hết mọi người, trong thâm tâm vẫn có khát vọng được tự do tuyệt đối, hoàn toàn làm chủ đời mình, không lệ thuộc ai hay sự gì khác. Nhưng kinh nghiệm cho thấy con người, mỗi khi cố gắng đưa thái độ đó vào hành động cụ thể, sớm muộn đều gây nên thảm hoạ cho chính mình trên bình diện lịch sử cũng như bình diện cá nhân. Bởi vì con người không phải là tuyệt đối. Đó là sự thật về nó. Nếu nó từ chối lệ thuộc Thiên Chúa, nó sẽ nô lệ những thần tượng khác mà nó tạo nên.

 

Thế nào là làm chủ ?

 

Như đã nói, làm chủ là đặc ân và trách nhiệm cao cả nhất con người được tạo hoá ban cho. Từ thời A–dong, E-và đến nay, loài người đã tiến những bước khổng lồ trong việc làm chủ thiên nhiên. Khoa hoc, kỹ thuật ngày nay làm được những những chuyện kỳ diệu. Máy tính điện tử có thể làm hàng triệu phép tính phức tạp trong một giây. Có những chiếc máy bay trinh sát ở độ cao 36.000 kim có thể quan sát cùng một lúc cả một diện tích bằng 1/3 địa cầu, ghi nhận và phân biệt những chi tiết dài chỉ có 10 cm.Hiện nay, đã có những rô bốt biết nhìn và chọn hướng đi trong phòng, tránh né các chướng ngại vật để quyết dọn, hút bụi trong phòng làm việc, hoặc bưng đồ ăn thức uống cho khách. Trong lãnh vực chăn nuôi, người ta chờ đợi những con bò cho 20 lít sữa/ngày, những con gà cho 300 trứng/năm…Khí tượng trong thế kỷ 21 sẽ có thể dự báo thời tiết hoàn toàn đúng trong vòng 7- 10 ngày  vả gần đúng trong vòng 2 tuần lễ. Đó là một món quà rất quí báu cho nhà nông.

 

Khả năng và sức mạnh con người thật vĩ đại. Nhưng về mặt khác, con người vẫn yếu đuối, mỏng dòn. Tuy làm chủ thiên nhiên như thế, nhưng con người không làm chủ được cõi lòng mình, vẫn dễ dàng đầu hàng trước mời mọc của cái ác và làm nô lệ cho đam mê dục vọng xấu xa. Chính vì thế mà các công trình của con người đáng lý phải phục vụ cho con người, thường quay đầu chống lại họ. Chỉ thấy thí dụ về hai cuộc chiến tranh thế giới ở thế kỷ 20; cuộc chiến thứ nhất đã giết chết 10 triệu người, cuộc chiến thứ hai huỷ diệt đến 50 triệu vì vũ khí tàn sát tối tân hơn. Nhưng nếu một cuộc chiến tranh nguyên tử xảy ra, thì những con số ấy chưa thấm vào đâu.

 

Sự phát triển kỹ thuật và văn minh thời đại chúng ta không đi đôi với một sự phát triển  tương xứng trong đời sống đạo đức và ý thức đạo đức. Bởi đó, tiến bộ về trí thức và kỹ thuật thường không đem lại một tiến bộ về tinh thần, không làm cho đời sống con người trên trái đất trở nên nhân đạo hơn, xứng đáng với con người hơn. Mà lắm khi ngược lại. sự tàn phá môi trường chưa từng có là một thí dụ.

 

Trong các cuộc làm chủ, thì làm chủ cái tâm của mình thường là khó khăn nhất.

 

Ai sẽ giải thoát tôi ?

 

Con chiến đấu nội tâm được thánh Phaolô mô tả trong thư Roma là cuộc chiến  mà mọi người chúng ta đều có kinh nghiệm : “ Tôi làm gì tôi cũng không hiểu nữa, vì điều tôi muốn thì tôi không làm, nhưng điều tôi nghét , thì tôi lại cứ làm…Muốn sự thiện thì tôi có thể muốn, nhưng làm thì không, còn sự ác tôi không muốn, tôi lại cứ làm..Tôi thật là một người khốn nạn” Thật là một kinh nghiệm ê chề. Nhưng thánh Tông đồ không tuyệt vọng. Người tự hỏi : “ ai sẽ giải thoát tôi!”, rồi tự trả lời : “Thưa là Đức Giêsu Kitô” ( Rm 15, 18 – 19, 24-25)

 

Sứ điệp của Kinh Thánh vẫn luôn luôn đúng và hợp thời, đó là con người cần được cứu chuộc. Và có một cuộc cách mạng mà loài người phải làm song song với cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật, là hoán cải cõi long, vì xét cho cùng, mọi sự xấu xa đều  phát sinh từ đó.

 

Đức Giêsu Kitô mặc khải cho chúng ta tình yêu của Thiên Chúa, Người là Đấng cứu độ chúng ta. Người không đe doạ ta, không cạnh tranh với ta.Đừng sợ !Người giải phóng cõi long chúng ta và bảo đảm cho  công cuộc trần thế của con người  đạt được mục đích và ý nghĩa cao quí của nó.

 

Lm. Nguyễn Hồng Giáo, Dòng Phanxicô

Mục lục

 

 

“Hãy sinh xôi đầy mặt đất!”

 

Thắc mắc: con người bởi đâu, và họ có nhiệm vụ gì trong trời đất, là câu hỏi từ ngàn xưa.

Theo dòng thời gian đã có những câu trả lời. Nhưng tất cả cũng vẫn là những suy tư chẩn đoán của con người thôi.

Đức tin Công giáo căn cứ trên Kinh thánh đưa ra câu trả lời: Thiên Chúa dựng nên con người có Nam, có Nữ, và ban cho họ khả năng truyền sinh giống nòi tiếp tục: “ Hãy sinh sôi đầy mặt đất” ( St 1,28).

Nhưng sống, sinh họat thế nào để hoàn thành nhiệm vụ. Phải, hoàn thành sứ mạng Thiên Chúa ban truyền cho con người?

Câu trả lời không đơn gỉan. Vì mỗi thời đại, điều kiện, cung cách lề lối sống cùng lối suy nghĩ khác nhau.

1. Ngày xưa, thế hệ ông bà cha mẹ có cung cách sống: “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đó!”.

Đơn giản như vậy, mà mang lại hiệu qủa tốt tích cực, không chỉ trong lãnh vực đời sống hôn nhân, nhưng còn cả trong những lãnh vực khác như hướng dẫn giáo dục, như chọn nghề nghiệp nếp sống…

Lẽ tất nhiên, cung cách lối sống này thích hợp vào thời điểm ngày xưa nhiều hơn cho ngày nay. Không thiếu những trường hợp có những người là nạn nhân oan khiên của lối “đặt đâu con ngồi đó”.

Lối sống này cũng gây nên tình trạng giới hạn sự hiểu biết về giới tính, cùng sự phát triển khả năng riêng của mỗi người nữa.

Nhiều bậc cha mẹ, người lớn than phiền: chúng tôi ngày đó lấy nhau, xã hội, gia đình có kỷ luật nghiêm ngặt lắm. Chúng tôi đâu có quen biết nhau đâu, và cũng chẳng biết gì nữa về tình yêu, về giới tính “nam nữ thọ thọ bất thân”. Ông bà cha mẹ bảo đi lập gia đình là đi thôi. Về sống chung với nhau mới biết mặt nhau. Rồi từ ngày có con, chỉ còn biết lo nuôi dậy con thôi!

2. Ngày nay, từ khi phong trào giải phóng, tự quyết, cởi mở càng ngày càng lan rộng, cung cách sống cũng theo đó có nhiều thay đổi biến chuyển từ nơi đời sống mỗi cá nhân, trong gia đình, ra tới ngoài xã hội và trong cả Giáo Hội Chúa Giêsu Kitô nữa.

Nhiều cha mẹ nhìn suy nghĩ lại đời mình thấy có nhiều thua thiệt, và mong muốn cho con cái mình không bị vướng vào vết xe cũ đó. Nhưng thách thức của thời đại trong chính cuộc sống của con cái ngày nay cũng làm họ chao đảo không ít.

Như một bạn gái tới tuổi trưởng thành có bạn trai. Cô ta dẫn bạn trai về giới thiệu với cha mẹ. Cha mẹ có thể vui mừng, vì thấy con cái mình giờ đã có bạn. Chúng bước vào tuổi trưởng thành, biết bước theo nhịp sống thời đại.

Nhưng họ cũng có lo lắng nhiều. Vì dầu sao họ cũng mường tượng ra sự gì có thể gây đến nguy hiểm, mang đến sự thiệt thòi cho tương lai con cái mình! Nhất là khi cha mẹ thấy người bạn đó có điểm gì không mấy hợp với ý nghĩ về đời sống, về công ăn việc làm, về đạo giáo, hay không có cảm tình thiện cảm mấy với người có thể sẽ là “ con rể hay con dâu tương lai” trong gia đình.

Nhưng đứng trước khát vọng của con mình muốn tạo lập xây dựng một gia đình, như dân gian thường nói: “đôi đũa có đôi!”, bậc cha mẹ dù có lo nghĩ hay không vui, cũng phải bằng lòng.

Chưa hết, ngày nay con người bị cám dỗ sống theo những cung cách hình thức sống chung khác nữa.

3. Theo luật tự nhiên và đạo giáo nề nếp xưa nay: hai người nam nữ cưới hỏi lập gia đình với nhau có phép đạo đời hẳn hoi. Nhưng ngày nay có phong trào hai người nam nữ sống chung như vợ chồng với nhau mà không có cưới hỏi theo luật phép đạo đời gì. Họ chỉ muốn sống chung thử xem có hợp với nhau không. Việc cưới hỏi hay luật phép lễ giáo đạo đời từ từ tính sau.

Hay có những bạn nam nữ sau một thời chung sống với nhau, hay đã cưới hỏi nhau có con cái, càng ngày nhận ra những khác biệt nơi nhau, những bất bình trong đời sống chung. Họ liền thay đổi ý muốn và chấm dứt cuộc sống chung, đường ai nấy đi!

4. Xã hội ngày nay đang thịnh hành phong trào đồng tình luyến ái. Hai người cùng phái tính, nam với nam, nữ với nữ, sống chung với nhau như vợ chồng. Nhiều quốc gia đất nước Công giáo bên tây phương đã và đang có dự định làm thành luật cho phép bảo vệ cung cách sống hôn nhân gia đình như thế.

Giáo Hội Công giáo đang gặp vấn đề rắc rối to lớn về vụ việc này, không chỉ trong lãnh vực đạo đức luân lý theo luật thiên nhiên, nhưng còn cả trong lãnh vực an toàn đời sống nữa.

Như Đức tổng giám mục Angelo Bagnasco của giáo phận Genua bên Ý đang bị đe doạ tấn công. Vì ngài lên tiếng cảnh cáo cản ngăn Quốc hội không được làm ra luật hợp thức hóa bảo vệ hôn nhân đồng tình luyến ái.

Như Đức Tổng giám mục Fabio Betancourt Tirado bên nước Columbia – bên Nam Mỹ châu- cũng bị đe dọa kiện ra tòa án. Vì ngài không chấp nhận lối sống đồng tình luyến ái giữa hai người cùng phái tính.

5. Các nước xã hội bên Âu Châu đang báo động tình trạng thiếu trẻ con, không còn người trẻ. Xã hội đang gìa cỗi đi. Cứ như thế này, dần dần xã hội sẽ mai một.

Giáo Hội Công giáo bên Âu châu đang gặp khủng hoảng cũng do, vì càng ngày càng ít người tin theo đạo, thiếu người giữ đạo, không người đi tu và thiếu người đóng góp tài chánh.

Xã hội cũng đang ít người đi, thì Giáo hội làm sao có thêm người tin theo đạo được nữa! Đó là chưa kể đến những người đang có đạo quay lưng lại với Giáo Hội bỏ đức tin Công giáo nữa.

Có nhiều người trẻ ngày nay tâm sự: Bây giờ thấy người ta sống chung với nhau dễ dàng, lại có nhiều lợi điểm về xã hội tiền bạc, cùng nhìn thấy nhiều đôi vợ chồng bỏ nhau li dị, và nếu lập gia đình có con thì vất vả, tốn kém nhiều qúa, mau mất đi sắc đẹp vẻ xuân xanh, mất nhiều tự do…nên không muốn lập gia đình nữa.

Hoặc ở vậy, hoặc chỉ sống với người “bạn” mà không muốn bị ràng buộc gì hết!

6. Nhìn ra những khó khăn phức tạp, phải, những khủng hoảng như thế. Nên nhiều quốc gia bên xã hội tây phương đang có những chương trình nâng đỡ các gia đình trẻ sinh con nuôi con và giúp cả việc huấn luyện dậy dỗ trẻ con nữa.

Giáo Hội coi nếp sống gia đình xây dựng trên căn bản giữa hai người nam nữ, bất di bất dịch là nền tảng cho sự sống, mà Đấng Tạo Hóa đã đặt để ký thác nơi con người, được tiếp tục phát triển lành mạnh.

“ Hôn nhân và gia đình là một thực tại trong đời sống. Nó không phải là một cấu trúc bất ngờ xảy ra. Nó cũng chẳng phải là kết qủa của tình trạng lịch sử hay kinh tế. Trái lại, thắc mắc về sự kiên kết giữa hai người Nam và Nữ có căn rễ nguồn gốc ở tận bản chất nơi con người….Con người được tạo thành theo giống hình ảnh của Thiên Chúa, mà chính Ngài là tình yêu.

Vì thế, ơn kêu gọi đến với tình yêu làm con người trở nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Họ sẽ trở nên giống Thiên Chúa, khi họ trở thành người yêu thương…

Cũng vậy, trong việc sinh sản con cái đời sống hôn nhân phản chiếu lại hình ảnh Thiên Chúa, Đấng là tình yêu.

Người Nam và người Nữ trở thành người cha và người mẹ. Thân xác và tình yêu không giới hạn trong lãnh vực sinh vật: Sự sống chỉ được hoàn toàn tiếp tục lan truyền cho đi, nếu cùng với sự sinh sản, tình yêu và ý nghĩa cũng được đồng thuận bằng lòng tiếp tục cho đi.

Điều gì phủ nhận tình yêu con người, một ơn kêu gọi sâu thẳm nơi người đàn ông cũng như nơi người Phụ nữ, hay mối tương giao liên kết của họ ngược chống lại qùa tặng đời sống hay hơn thế nữa, mang đến hậu qủa phá hủy hay làm tổn thương sự sống.” ( Giáo hoàng Benedictô XVI., Đại Hội Gia đình giáo phận Roma, ngày 06.06.2005).

Đây chỉ là một suy nghĩ riêng của tôi mong muốn cùng góp ý kiến vào việc xây dựng một nếp sống hôn nhân lành mạnh theo ý Chúa và Giáo hội mong muốn thôi.

Lm. Nguyễn Ngọc Long

Mục lục

 

 

SỐNG CHỨNG NHÂN

 

DÂNG HIẾN CUỘC ĐỜI CỨU SỐNG CÁC TRẺ EM BỊ UNG THƯ ÓC


Chris Feulner - 4 tuổi - là con út của gia đình có 4 người con. Một ngày, đang chơi bỗng Chris giơ tay ôm đầu vừa chạy vào nhà vừa hét lớn:


- Con đau tai, trời ơi, con đau tai!


Gương mặt cậu bé trở nên đỏ gay. Cậu bé vừa dậm chân vừa dùng tay kéo mạnh tai, như muốn giật đứt vành tai để làm giảm cơn đau. Cha mẹ cậu bé hốt hoảng trước cơn đau dữ dội bất ngờ của con. Ông bà vội mang con đến nhà thương xin cấp cứu. Sau một hồi khám nghiệm, bác sĩ không tìm ra lý do cơn đau, đành cho cậu bé ra về và dặn cha mẹ cho cậu uống thuốc Aspirine để làm giảm cơn đau.


Thế nhưng cũng kể từ hôm đó, bé thường bị lên cơn đau khiến cậu phải la hét. . Từ một cậu bé vui tươi tinh nghịch, Chris trở thành lầm lì, buồn bã. Một ngày, sau những chữa trị đau đớn, Chris nói với Ba:


- Con thích được lên thiên đàng hơn phải sống như thế này!


Chặng đường thánh giá của bé Chris kéo dài hơn hai năm trời, cho đến một hôm, có người mách cha mẹ bé Chris tìm đến với bác sĩ Fred Epstein, chuyên viên giải phẫu thần kinh, tại Trung Tâm chữa trị thần kinh cho trẻ em ở đại học New York. Hôm đó là ngày 5-9-1980 và bé Chris lên 6 tuổi.


Sau khi khám nghiệm, bác sĩ Fred nhận thấy cậu bé bị ung thư óc, nhưng tại những nơi não bộ điều khiển các hoạt động chính yếu như: phản xạ, hít thở và nhịp đập của tim. Do đó, cuộc giải phẫu sẽ gặp nhiều nguy hiểm và hy vọng chữa lành thật mỏng manh. Cha mẹ cậu bé cũng biết rõ tình trạng trầm trọng của con, nên quyết định phó thác mọi sự rủi may trong bàn tay lành nghề, và nhất là, nơi tấm lòng yêu thương và ý muốn cứu sống các trẻ em của bác sĩ Fred Epstein.


Bác sĩ Fred quyết định giải phẫu não bộ của bé Chris, để cắt bỏ phần bị ung thư. Và cuộc giải phẫu thành công. Chris Feulner sau đó là thanh niên yêu đời, tràn đầy sức sống.


Đối với bác sĩ Fred Epstein, thì đây là một trong những thành công đem lại an ủi và khuyến khích, trong cuộc đời hành nghề giải phẫu thần kinh cho trẻ em.


Khi còn ở bậc tiểu và trung học, Fred là học sinh hết sức bình thường. Đến khi mãn bậc trung học, Fred lại nhất quyết ghi tên vào trường y khoa. Anh muốn trở thành bác sĩ. Nhưng vì học lực không mấy xuất sắc, nên đơn của chàng luôn bị bác bỏ. Sau cùng, nhờ sự can thiệp của thân phụ, lúc đó đang hành nghề bác sĩ, Fred mới được nhận vào phân khoa bác sĩ thuộc đại học New York.


Fred theo ngành chữa trị thần kinh, giống như thân sinh và anh cả. Nhưng sau ba năm, người ta chuyển chàng sang ngành giải phẫu thần kinh. Ban đầu, ngành này làm chàng khiếp sợ, vì chàng nhận ra: một bác sĩ giải phẫu thần kinh khác xa một bác sĩ chữa trị thần kinh. Vị bác sĩ thần kinh chỉ tưởng tượng bên trong bộ óc của bệnh nhân, trong khi bác sĩ giải phẫu thần kinh, trông thấy, đụng chạm và chữa trị chính bộ óc bệnh nhân.


Nhưng rồi với thời gian, Fred cảm thấy bị thu hút bởi ngành giải phẫu thần kinh, đặc biệt là thần kinh trẻ em. Sau khi ra trường, bác sĩ Fred Epstein quyết định dâng hiến cuộc đời để chữa trị các trẻ em. Bác sĩ nói:

- Trông thấy chứng ung thư tàn phá thân xác một trẻ em, thì chẳng khác nào chiêm ngắm vẻ đẹp của một thụ tạo, nhưng ở mặt trái của nó! Tôi không bao giờ đầu hàng trước cái chết của trẻ em, bao lâu tôi chưa làm hết cách để cứu sống các em.


Mỗi khi đứng trước chứng bệnh của một em bé, bác sĩ Fred luôn tự nguyện đem hết khả năng và nhiệt huyết ra để chữa trị. Bác sĩ tâm sự:


- Trong khi hành nghề bác sĩ, tôi cảm nhận sự nâng đỡ cách riêng của gia đình, gồm vợ hiền và năm đứa con. Mỗi lần giải phẫu một trường hợp nguy kịch, tôi biết rõ, vợ và các con cùng hiệp sức với tôi bằng lời cầu nguyện. Ngoài ra, tận nơi sâu thẳm lòng tôi, ẩn chứa Đức Tin vững mạnh vào sự trợ giúp của THIÊN CHÚA. Chính Đức Tin thúc đẩy tôi phải ra tay và phải chữa trị đến cùng. Bên cạnh Đức Tin, tôi cũng mang niềm hy vọng. Trước bất cứ trường hợp nào, dù hiểm nguy cách mấy, tôi luôn hy vọng mình có thể chữa trị được, hầu mang lại niềm hy vọng cho bệnh nhân và cho gia đình bệnh nhân. Tôi còn một ước muốn sâu xa khác, đó là, bằng mọi cách, phải cứu vớt mạng sống con người.


Một lần, một bác sĩ bạn trách cứ bác sĩ Fred đi quá xa trong các cuộc giải phẫu, nếu không muốn nói là quá liều lĩnh trong ước muốn: giải phẫu thần kinh để chữa trị bệnh ung thư não bộ, bác sĩ Fred Epstein điềm nhiên trả lời:


- Cần phải biết hy vọng và tin tưởng. Phép lạ là điều có thể xảy ra và đã xảy ra. Tôi từng chứng kiến phép lạ. Vậy tại sao chúng ta không biết hy vọng và tin tưởng?


... ”Ai lên trời chiếm được khôn ngoan, rời khỏi tầng mây mà đưa xuống? Ai vượt trùng dương để mong tìm được, rồi lấy vàng y đổi đem về? Đường khôn ngoan, nào ai biết được, nẻo khôn ngoan, mấy kẻ quan tâm? Chỉ mình Đấng Toàn Tri mới biết đức khôn ngoan, chỉ có trí tuệ Người mới thông suốt được. Người đã thiết lập cõi đất cho bền vững muôn đời, đã cho thú vật tràn đầy mặt đất. . Chính Người là THIÊN CHÚA chúng ta, chẳng có ai sánh được như Người” (Sách Barúc 3,29-32+36).


(”Sélection du Reader's Digest”, Avril/1993, trang 154-180).

Sr. Jean Berchmans Minh Nguyệt

Mục lục

 

 

TÌNH YÊU – HÔN NHÂN – GIA ĐÌNH

 

Giúp bé tăng khả năng diễn đạt ngôn ngữ

Bạn rất mong con mình nói được khi bước qua năm thứ hai. Nhưng đôi khi có sự khác nhau quá lớn giữa các đứa trẻ. Điều đó một phần là do tính cách, khí chất của từng bé: một số bé có bản năng về từ ngữ tốt hơn. Ngoài ra con trai thường biết nói trễ hơn con gái và con gái thường nói nhiều hơn. Khi được 14 – 16 tháng, nên tập cho bé nói những từ có một âm. Các từ bé hay nói nhiều nhất thường là “ba” hay “bà”.

Lúc đầu bé thường dùng từ “ba” để chỉ những người đàn ông mà bé biết hay “chó” để chỉ những con vật có 4 chân. Tiếp theo là câu nói có hai từ, mà thường là những câu yêu cầu vì dụ như “đi chơi” hoặc “cho con”. Dần dần bé sẽ nói được những câu đơn giản đầy đủ hơn như “cho con con gấu”... Người ta khuyên không nên cho trẻ con xem tivi ở độ tuổi này. Những hình ảnh chuyển động nhanh rất hấp dẫn nhưng lời nói thường quá khó để bé có thể hiểu kịp.

Do đó, nếu con bạn tiêu tốn quá nhiều thơi gian cho việc xem tivi sẽ ảnh hưởng không tốt đến khả năng ngôn ngữ của trẻ.

 Vai trò của “nghe” trong sự phát triển ngôn ngữ

Để có thể nói được, bé cần phải có kỹ năng “nghe”. Dù đã có thể nghe tốt nhưng bé vẫn cần phải phân biệt sự khác nhau giữa các âm tiết trong những tiếng ồn ào. Bạn nên trực tiếp nói chuyện với bé và không để bé bị quấy rầy. Khi đó bé có thể nghe được rõ ràng cách phát âm của từng từ. Điều này không chỉ giúp bé ghi nhận lại một cách chính xác những gì nghe được mà còn tập cho bộ não của bé phân biệt những âm tạo nên từ đó. Do đó sẽ giúp ích rất nhiều khi bé đọc, viết và đánh vần. vì vậy, khi nói chuyện với bé, bạn hãy tắt tivi hay rađio đi. Con bạn không thể lọc những tiếng ồn trong khi đang cố gắng nghe.

Nếu không nghe, trẻ sẽ không thể tập nói được, bởi vì khả năng “nói” phụ thuộc vào khả năng “nghe”. Có rất nhiều điều bạn có thể làm để khuyến khích bé học nói, ví dụ, hãy lặp lại câu nói của bé cho bé nghe. Nếu bé nói, “con mèo đi rồi” thì bạn có thể nói “đúng, con mèo đi rồi, con mèo nó đi đâu vậy con.” Việc lặp lại giúp bé cố gắng nói đúng hơn. Tiếp tục kéo dài cuộc nói chuyện sẽ giúp bé làm quen với những từ mới. Đừng sửa câu nói của bé một cách quá thẳng thừng, bởi vì làm như vậy có thể khiến bé ít nói hơn.

Trong khi nói chuyện, bạn nên cố gắng lắng nghe và cố hiểu xem bé đang nói gì để khuyến khích sự cố gắng của bé. Khi thay đồ cho bé, hãy nói về quần áo mà bé đang mặc và gọi tên từng bộ phận trên cơ thể bé. Khi đi mua sắm trong siêu thị hãy giải thích những gì bạn đang làm. Mặc dù lúc đầu hơn lạ lẫm bởi vì dường như chỉ có một mình bạn nói thôi. Nhưng rồi, nó sẽ nhanh chóng trở thành cuộc nói chuyện vui vẻ cho cả bạn lẫn con bạn. Những bài hát đi kèm với điệu bộ của tay rất tốt cho sự phát triển kỹ năng ngôn ngữ của bé. Chúng giúp bé tập trung hơn bởi vì khi được lặp lại bé sẽ đoán trước được và chờ đợi những gì xẩy ra tiếp theo.

 Người dịch: Bác sĩ Nguyễn Lân Đính (Nguồn:Trích sách IQ giúp bé phát triển trí tuệ toàn diện - tập 1 )

 

Theo Web site www.tainangchame.net

Mục lục

 

ĐỌC SÁCH

 

Tương quan giữa cha sở với các nữ tu, ban hành giáo và các đoàn thể trong giáo xứ (tiếp theo)

 

 

 

Phục vụ vô vị lợi


Đa số các linh mục Việt Nam đang học hoặc đang truyền giáo ở ngoại quốc đều cùng có một nhận định như sau: “Các nữ tu ở quê nhà (Việt Nam) phục vụ trong các giáo xứ đạo đức, nhiệt thành, đa tài và vô vị lợi”. Đó là một nhận xét khách quan và đáng mừng, bởi vì các nữ tu Việt Nam khi đến phục vụ trong một giáo xứ thì tất cả đều tự túc tự lực, không lãnh lương nhà xứ, không có bổng lễ như các linh mục và không có lợi tức cố định nào khác ngoài việc dạy trẻ, làm các việc thủ công để kiếm sống hàng ngày. Khác với các nữ tu ở ngoại quốc, mà cụ thể là tại Giáo Hội Đài Loan, các nữ tu đến giúp xứ thì nhà xứ phải trả lương, lương cao hơn cha sở, mà việc làm thì theo giờ hành chánh, ít việc, và nhẹ nhàng (bởi vì đa phần giáo xứ rất ít giáo dân), do đó mà có một số các cha sở người địa phương không muốn các nữ tu đến giúp xứ cho các ngài, bởi vì giáo xứ nhỏ và ít giáo dân, ít việc làm mà thêm nữ tu nữa thì lãng phí nhân sự và tiền bạc, nếu không nói là một gánh nặng cho giáo xứ.


Nhìn lại các nữ tu Việt Nam của chúng ta phục vụ cách vô vị lợi cộng với tâm hồn trẻ trung nhiệt thành, không đòi hỏi phải được thù lao xứng đáng, họ như những phụ nữ đi theo trợ giúp Chúa Giê-su và các tông đồ trong việc truyền giáo, như những nữ tỳ trung tín của Đức Mẹ Maria trong cung cách phục vụ, để qua họ, người ta nhận ra khuôn mặt của Chúa Giê-su đang gần gủi với họ hơn trong cuộc sống đời thường.

Tình liên đới trong sứ mệnh làm chứng nhân cho Phúc Âm của Chúa Giê-su giữa cha sở và các nữ tu, thúc bách các cha sở ngoài việc động viên tinh thần, thì cũng nên quan tâm đến vật chất cho các nữ tu, vì với cương vị là gia trưởng ngài phải lo chăm sóc con cái; với cương vị là mục tử thì ngài không bỏ sót con chiên nào mà không quan tâm, mà các nữ tu đang phục vụ trong giáo xứ của ngài càng đáng được ngài ưu tiên quan tâm nhiều hơn nữa, tùy theo khả năng có thể của cha sở, bởi vì “thợ đáng được ăn lương của mình” (Lc 10, 7) “Chúa đã định liệu cho những ai rao giảng Phúc âm được sống bởi Phúc âm (1 Cor 9, 14).


Có một vài giáo dân “nới chơi” với nhau: “Ông cha sở sướng thật, mỗi ngày quay lưng ra quay lưng vào một tiếng đồng hồ là có tiền tiêu, lại còn ăn uống sung sướng, không biết cha có giúp đỡ mấy bà sơ không ?”- Tuy là lời “nói chơi với nhau”, nhưng đó cũng là một nhận xét khách quan của giáo dân, bởi họ thấy cuộc sống của cha sở và các nữ tu đang phục vụ trong giáo xứ khác nhau xa. Nói như thế không có nghĩa là cha sở nào cũng giống nhau, có một vài cha sở khi mời các nữ tu đến giúp giáo xứ thì cơ sở vật chất ngài đã chuẩn bị đầy đủ, và thỉnh thoảng cũng chia sẻ với các nữ tu trong một vài vấn đề vật chất cũng như tinh thần.


Phục vụ vô vị lợi chính là noi gương Chúa Giê-su, Ngài đến thế gian để phục vụ chứ không phải để được người khác phục vụ, là những nữ tỳ trung tín của Chúa Giê-su, các nữ tu cũng đang noi gương Ngài phục vụ cách vô vị lợi trong giáo xứ của cha sở. Cứ nhìn thấy các em thiếu nhi dâng hoa cho Đức Mẹ vào dịp thánh Năm và tháng Mười, thì sẽ thấy sự phục vụ không công của các nữ tu trong giáo xứ; cứ nhìn thấy các em nghiêm trang lên rước lễ lần đầu hoặc lãnh nhận bí tích Thêm Sức, thì sẽ thấy ngay công lao của các nữ tu trong giáo xứ, hoặc được nghe ca đoàn hát những bài thánh ca trong ngày lễ chủ nhật hoặc các ngày lễ trọng, thì biết ngay công sức của các nữ tu bỏ ra mà không mong một lời động viên của cha sở, và còn rất nhiều việc khác liên quan đến Nhà Chúa, mà cha sở không thể tự mình làm được.

Tuy vậy, vẫn có những giáo xứ mà sự phục vụ vô vị lợi này của các nữ tu được cha sở trả ơn bằng những lời chê bai, bằng thái độ không thông cảm của một chủ nhân hơn là một mục tử.


Có một vài cha sở giỏi nhạc lý, giỏi đàn ca nhưng không giỏi về tâm lý và đối nhân xử thế ít có nhân bản, các ngài không đem cái hay giỏi của mình ra để góp ý cho các nữ tu phụ trách các công việc trong nhà xứ, nhưng hể khi ca đoàn hát sai nhịp, hoặc hát bài thánh ca không hợp ý ngài là to tiếng la mắng nữ tu phụ trách giữa nhà thờ có cộng đoàn tham dự, hoặc bắt ca đoàn đang hát phải ngưng lại đừng hát nữa vì ngài nghe không hay, không như ý ngài. Ngài làm như thế không một giáo dân nào thấy cái hay cái giỏi nhạc của ngài, mà họ chỉ thấy cha sở của mình kiêu ngạo, hách dịch và làm cho cộng đoàn ngao ngán khi tham dự thánh lễ ấy...


Phần nhiều các cha sở rất an tâm khi có các nữ tu đến giáo xứ mình phục vụ, bởi vì ngoài công việc của một nữ tu lo việc giáo xứ, thì các nữ tu còn có một trách nhiệm khác là đem Lời Chúa đến cho mọi người trong giáo xứ, bằng việc phục vụ vô vị lợi, mà hiệu quả thì có lợi rất nhiều cho giáo xứ và cho cha sở.

Sự phục vụ vô vị lợi này nơi các nữ tu bởi đâu mà có ? Thưa, đó chính là lòng yêu mến Thiên Chúa thúc bách các nữ tu ra đi phục vụ tha nhân với một tinh thần trách nhiệm rất cao, trách nhiệm về hành vi ngôn từ của mình, trách nhiệm về công tác được bề trên giao phó, trách nhiệm làm tròn bổn phận của một nữ tu giúp xứ, và hơn tất cả mọi trách nhiệm, đó chính là trở nên một nữ tỳ trung tín của Chúa Giê-su và Đức Mẹ Maria trong việc phục vụ giáo xứ của mình.


Có một vài công việc trong giáo xứ, đáng lý ra phải để cho các nữ tu phụ trách mới có kết quả tốt về lâu về dài, chẳng hạn như phụ trách giáo lý, đoàn thể thiếu nhi, ca đoàn.v.v...nhưng có một vài nơi cha sở không giao cho các nữ tu, mà giao cho một hoặc hai nữ (nam) giáo dân phụ trách, vì cha sở tin tưởng họ hơn các nữ tu (hoặc vì lý do nào khác), kết quả là cha sở phải đi năn nỉ các cô đi tập hát cho đúng giờ, đi lễ cho đúng giờ, đi họp cho đúng giờ, bởi vì các giáo dân này còn bận nhiều việc riêng ở nhà, việc riêng của mình, bận đi học, đi làm việc, và có khi thánh lễ đến giờ rồi mà không thấy người phụ trách đâu cả, và có khi các cô làm nũng làm điệu khiến cha sở phải điên cái đầu lên ! Nói như thế không phải là chê giáo dân không biết làm việc, nhưng cha sở nên cân nhắc việc nào thì mời các nữ tu phụ trách, việc nào thì để giáo dân đảm nhận, có như thế giáo xứ mới sống động hẳn lên, vì ban ngành nào đều ý thức trách nhiệm của mình mà làm việc.


(còn tiếp)

Lm. Giuse Maria Nhân Tài, csjb.

 

Mục lục